Sự phát triển từ thập niên 1960 đến thập niên 1970 Tên lửa chống tên lửa đạn đạo

Nike-X, Sentinel và Safeguard

Nike X là một hệ thống của Mỹ với hai tên lửa, các loại radar và những hệ thống điều khiển kết hợp. Nguyên bản gốc là Nike Zeus (sau này được gọi là Spartan) được nâng cấp để có thể bay tầm xa và mang đầu đạn có sức công phá hơn 5 megaton dự định dùng để phá hủy các đầu đạn của đối phương với một vụ nổ giải phóng tia X ngoài khí quyền. Tên lửa thứ hai tầm ngắn hơn gọi là Sprint với gia tốc lớn được thêm vào để tiêu diệt các đầu đạn tránh được tên lửa Spartan tầm xa. Sprint là một tên lửa rất nhanh (một số nguồn tuyên bố nó tăng tốc lên 8.000 mph (13 000 km/h) trong 4 giây và chịu gia tốc trung bình 100 g) và có một đầu đạn tăng cường bức xạ W66 nhỏ công suất 1-3 kiloton để đánh chặn trong khí quyển.

Spartan phiên bản mới cũng thay đổi cả kế hoạch triển khai. Trước đó hệ thống Nike được bố trí gần các thành phố như một biện pháp phóng thủ cuối cùng, nhưng Spartan cho phép đánh chặn các đầu đạn từ xa cách hàng trăm dặm. Do đó thay đổi nền tảng nhằm tạo ra một ô phòng thủ tên lửa đạn đạo bao phủ hoàn toàn Mỹ, đã được dành cho một hệ thống có tên gọi là Sentinel. Khi hệ thống này tỏ ra không thể thực hiện được vì những lý do kinh tế, nhiều ý kiến đề xướng triển khai nhiều tên lửa nhỏ hơn sử dụng chung hệ thống, đó là Safeguard. Safeguard chỉ bảo vệ các căn cứ ICBM của Mỹ khỏi bị tấn công, về mặt lý thuyết bảo đảm rằng một cuộc tấn công có thể được đáp trả bằng các vụ phóng tên lửa của Mỹ, ví dụ như nguyên lý đảm bảo phá hủy lẫn nhau (mutually assured destruction).

Hệ thống ABM của Nga

Vụ thử tiêu diệt tên lửa đạn đạo thực sự và thành công đầu tiên của ABM được chỉ đạo bởi Lực lượng Phòng không Xô viết (PVO) vào 1 tháng 3-1961. Một tên lửa V-1000 thử nghệm (một phần của chương trình "A" ABM) đã được phóng đi từ bãi bắn tập Sary-Shagan, phá hủy một đầu đạn giả tách ra từ một tên lửa đạn đạo R-12 phóng đi từ sân bay vũ trụ Kapustin Yar. Đầu đạn giả đã bị phá hủy bởi một vụ va chạm với 18.000 quả cầu cacbua vonfam 140 giây sau khi phóng, trên độ cao 25 km. Hệ thống tên lửa V-1000 dù sao đã bị xem là không đáng tin cậy và bị hủy bỏ nhằm phát triển các ABM trang bị đầu đạn hạt nhân.

Chỉ có duy nhất một hệ thống ABM chống ICBM đã được sản xuất là hệ thống A-35. Hệ thống này ban đầu là một thiết kế một lớp có tầm bắn ra ngoài khí quyển, sử dụng tên lửa đánh chặn Galosh (SH-01/ABM-1). Nó được triển khai ở 4 vị trí quanh Moskva vào đầu thập niên 1970.

Ban đầu Liên Xô dự định triển khai ở nhiều vị trí, nhưng cuối cùng hệ thống A-35 đã bị giảm xuống còn 2 vị trí triển khai theo hiệp ước ABM 1972. Nó được nâng cấp vào thập niên 1980 thành hệ thống hai lớp có tên là A-135. Tên lửa tầm xa Gorgon (SH-11/ABM-4) được thiết kế để đánh chặn những mục tiêu bên ngoài khí quyển, và tên lửa tầm ngắn Gazelle (SH-08/ABM-3) sẽ tiêu diệt những mục tiêu thoát được tên lửa Gorgon. ABM-3 và hệ thống Safeguard của Mỹ có kỹ thuật tương tự nhau.[2]

Vấn đề phòng thủ chống lại MIRV

Thử nghiệm LGM-118A Peacekeeper, có 8 tia lửa từ chỉ một tên lửa. Mỗi một tia lửa là một đầu đạn, sức công phá gấp 25 lần vũ khí kiểu Hiroshima.

Các hệ thống ABM ban đầu được phát triển để chống lại những đầu nổ đơn được phóng đi từ các tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) lớn. Về mặt kinh tế học có vẻ đủ đơn giản; một khi chi phí tên lửa tăng nhanh chóng với kích thước, giá của ICBM phóng một đầu đạn lớn sẽ luôn lớn hơn so với nhiều tên lửa đánh chặn nhỏ hơn cần để bắn hạ nó. Trong một cuộc chạy đua vũ trang, phòng thủ luôn luôn chiến thắng.

Nhưng đã có nhiều thay đổi đột ngột khi các đầu đạn MIRV (multiple independently targetable reentry vehicle - phương tiện chứa nhiều đầu đạn tấn công nhiều mục tiêu độc lập) được đưa vào sử dụng. Ngay lập tức một bệ phóng không phải phóng một đầu đạn như riêng biệt, mà thay vào đó là nhiều đầu đạn. Hàng rào phòng thủ vẫn yêu cầu một tên lửa cho mỗi đầu đạn, như chúng vào qua một không gian rộng và không thể bị tấn công bởi vài đầu đạn từ một tên lửa chống tên lửa đơn. Lúc này phòng thủ lại có giá thành đắt hơn tấn công; tên lửa tấn công chỉ phải tăng thêm một ít chi phí để thêm vào các đầu đạn, hoặc mồi, so với bên phòng thủ phải xây dựng thiết bị đánh chặn cần thiết để bắn hạ nó.

Thành công của thử nghiệm trên hệ thống Nike X đã thuyết phục được chính quyền của Lyndon B. Johnson nhằm đề xướng một lá chắn phòng thủ ABM mỏng. Trong một bài diễn văn vào tháng 9-1967, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ lúc đó là Robert McNamara đã mô tả lá chắn này là Sentinel. McNamara là một người phản đối ABM kín đáo vì chi phí tính khả thi của nó, McNamara đã tuyên bố Sentinel không phải được định hướng dùng để chống lại các tên lửa của Liên Xô (từ khi Liên Xô có đủ tên lửa để chôn vùi bất kỳ hệ thống phòng thủ của Mỹ), mà nó sẽ chống lại các mối đe dọa hạt nhân tiềm tàng từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Trong lúc đó, một cuộc tranh luận công khai về năng lực của các ABM các nổ ra. Thậm chí trước khi vấn đề MIRV khiến cho ABM không còn hiệu lực khả thi vào cuối thập niên 1960, một số khó khăn kỹ thuật đã làm dấy lên các câu hỏi về khả năng của hệ thống ABM trước các cuộc tấn công hàng loạt lớn. Một vấn đề là FOBS (Fractional Orbital Bombardment System - Hệ thống ném bom quỹ đạo phân đoạn) đưa ra các cảnh bảo nhỏ cho hệ thống phòng thủ. Vấn đề khác là độ cao EMP (xung điện từ) (dù từ đầu đạn hạt nhân tấn công hay phòng thủ) có thể làm hệ thống radar phòng thủ mất tác dụng.

Để những khó khăn về kỹ thuật sang một bên, cuộc tranh luận quay về một quan điểm kỳ quặc: không có sự phòng thủ toàn bộ nào tốt hơn bất kỳ sự phòng thủ nào. Tức là, một ý nghĩ sai lầm về sức mạnh an ninh có thể ủng hộ ABM-bảo vệ quốc gia để leo thang chống lại các mối đe dọa nhỏ, tin rằng chúng sẽ bảo vệ quốc gia chống lại bất kỳ sự đáp trả nào. Bởi lập luận này đơn giản cho việc bắt đầu triển khai một hệ thống ABM, như vậy có thể thúc đẩy một cuộc tấn công quy mô lớn trước khi nó có thể hoạt động được và do đó đáp trả lại một cuộc tấn công như vậy là vô ích. Khuynh hướng kỳ lạ của những lý lẽ đề này như vậy đã đặt hệ thống trong một vị trí dễ gây khủng hoảng: nó đã không thể hoạt động, nhưng nếu nó hoạt động thì tình hình sẽ tồi tệ hơn.

Hiệp ước Tên lửa chống tên lửa đạn đạo 1972

Những vấn đề khác nhau về chính trị, kinh tế và kỹ thuật đã dẫn đến Hiệp ước ABM (Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo) năm 1972, hiệp ước này hạn chế việc triển khai các tên lửa chống tên lửa đạn đạo chiến lược (không phải chiến thuật) giữa Liên Xô và Mỹ.

Dưới hiệp ước ABM 1972 và hiệp ước sửa đổi 1974, mỗi quốc gia chỉ được phép triển khai một hệ thống ABM với chỉ 100 tên lửa đánh chặn nhằm bảo vệ một mục tiêu quan trọng. Liên Xô đã triển khai hệ thống A-35 (sử dụng tên lửa đánh chặn Galosh), nhằm bảo vệ Moskva. Mỹ triển khai hệ thống Safeguard (sử dụng tên lửa đánh chặn Spartan/Sprint) để bảo vệ căn cứ tên lửa đạn đạo tại Căn cứ không quân Grand Forks, North Dakota, năm 1975. Hệ thống Safeguard của Mỹ chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn. Hệ thống của Nga đã được cải tiến với tên gọi A-135 và hiện vẫn đang bảo vệ quanh Moscow.

Vào ngày 13 tháng 6-2002, Mỹ đã đơn phương rút khỏi Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo và sau đó bắt đầu phát triển lại các hệ thống phòng thủ tên lửa mà trước đây bị ngăn cấm bởi hiệp ước song phương. Hành động này được thực hiện dưới lý do cần thiết phải bảo vệ nước Mỹ chống lại khả năng của một cuộc tấn công tên lửa từ một quốc gia thù địch.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tên lửa chống tên lửa đạn đạo http://www.ibnlive.com/videos/27568/india-unveils-... http://www.missilethreat.com/systems/ http://www.redstone.army.mil/history/vigilant/intr... http://www.defenselink.mil/releases/release.aspx?r... http://www.navy.mil/search/display.asp?story_id=35... http://www.acq.osd.mil/dsb/reports/2005-01-Patriot... http://www.cdi.org http://www.cdi.org/issues/bmd/Patriot.html http://www.fas.org/spp/starwars/program/hawk.htm http://www.fas.org/spp/starwars/program/sm2.htm